 
                            
                            
                            Tin Môi Trường- Tin nhanh về môi trường Việt Nam 
                            Hotline: 091.5203050 - 091.5203070 
 
                            Email: tinmoitruong@cpeco.org.vn 
                            Website: cpeco.org.vn 
                            
Rừng bị tàn phá- Ảnh: TL
Theo đó, đ  ối tượng  áp dụng Nghị định gồm: Hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, hộ gia  đình người Kinh nghèo đang sinh sống ổn định tại các xã có điều kiện  kinh tế - xã hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền  núi theo tiêu chí Thủ tướng Chính phủ quy định, có thực hiện một trong  các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng: bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh  rừng tự nhiên; trồng rừng, cây lâm sản ngoài gỗ trên đất quy hoạch phát  triển rừng được Nhà nước giao đất; nhận khoán bảo vệ rừng. Cộng đồng dân  cư thôn được giao rừng theo quy định tại Điều 29 Luật Bảo vệ và Phát  triển rừng và Điều 54 Luật Đất đai, tại các xã có điều kiện kinh tế - xã  hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng dân tộc và miền núi theo  tiêu chí Thủ tướng Chính phủ quy định, thực hiện bảo vệ rừng được giao  hoặc rừng nhận khoán.     
Đối tượng rừng khoán bảo vệ được hỗ trợ  gồm: Diện tích rừng Nhà nước giao cho Ban quản lý rừng đặc dụng, phòng  hộ; rừng đặc dụng, rừng phòng hộ là rừng tự nhiên Nhà nước giao cho các  công ty lâm nghiệp quản lý; riện tích rừng chưa giao, chưa cho thuê do  UBND cấp xã quản lý. Hộ gia đình, cộng đồng dân cư thôn nêu trên được hỗ  trợ tiền khoán bảo vệ rừng là 400.000 đồng/ha/năm, hưởng lợi từ rừng và  thực hiện trách nhiệm bảo vệ rừng theo quy định pháp luật hiện hành của  Nhà nước với hạn mức diện tích rừng nhận khoán được hỗ trợ  tối đa là  30 ha một hộ gia đình.  
Hộ gia đình thuộc đối tượng 1 nêu trên  thực hiện bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng được giao có trồng bổ  sung với rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên được hỗ trợ bảo  vệ rừng là 400.000 đồng/ha/năm; hỗ trợ trồng rừng bổ sung, mức hỗ trợ  theo thiết kế - dự toán, tối đa không quá 1.600.000 đồng/ha/năm trong 3  năm đầu và 600.000 đồng/ha/năm cho 3 năm tiếp theo. Chủ tịch UBND cấp  tỉnh quyết định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa  phương.  
Nghị định cũng quy định rõ hỗ trợ trồng rừng sản xuất và  phát triển lâm sản ngoài gỗ. Cụ thể, diện tích đất lâm nghiệp được quy  hoạch phát triển rừng sản xuất đã giao ổn định, lâu dài cho hộ gia đình  được hỗ trợ một lần cho chu kỳ đầu tiên để trồng rừng sản xuất bằng loài  cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ.  
Mức hỗ trợ từ 5-10 triệu  đồng/ha để mua cây giống, phân bón và chi phí một phần nhân công bằng  tiền đối với trồng cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ tùy theo chu kỳ kinh  doanh của loài cây trồng theo thiết kế - dự toán. Chủ tịch Ủy ban nhân  dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế  của địa phương và thiết kế - dự toán.  
Hộ gia đình nghèo tham gia  trồng rừng sản xuất và phát triển lâm sản ngoài gỗ, trồng rừng phòng hộ  thì được trợ cấp 15 kg gạo/khẩu/tháng hoặc bằng tiền tương ứng với giá  trị 15 kg gạo/khẩu/tháng tại thời điểm trợ cấp trong thời gian chưa tự  túc được lương thực. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức và  thời gian trợ cấp, nhưng tối đa không quá 7 năm.  
Căn cứ thiết kế  - dự toán trồng rừng, ngoài số tiền được hỗ trợ quy định để trồng rừng  sản xuất phát triển lâm sản ngoài gỗ, hộ gia đình được Ngân hàng Chính  sách xã hội hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho vay  không có tài sản bảo đảm phần giá trị đầu tư còn lại tối đa là 15 triệu  đồng/ha, lãi suất là 1,2%/năm. Thời hạn cho vay từ khi trồng đến khi  khai thác chính theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng nhưng không  quá 20 năm.  
Ngoài ra, hộ gia đình thuộc đối tượng 1 nêu trên được  Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển  nông thôn Việt Nam cho vay không có tài sản bảo đảm để chăn nuôi trâu,  bò, gia súc khác với hạn mức vay tối đa 50 triệu đồng, thời hạn cho vay  tối đa 10 năm, lãi suất là 1,2%/năm.